Ngày 9/9/2025, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 72-NQ/TW về “Một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân”. Nghị quyết đặt ra tầm nhìn chiến lược, nhằm xây dựng một hệ thống y tế hiện đại, công bằng, lấy con người làm trung tâm, hướng tới mục tiêu mỗi người dân Việt Nam đều được sống lâu, sống khỏe, sống hạnh phúc.
Nghị quyết nêu rõ, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao sức khỏe toàn dân. Việt Nam được quốc tế đánh giá cao trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc về y tế; chỉ số bao phủ dịch vụ y tế thiết yếu vượt mức trung bình khu vực; nhiều chỉ số sức khỏe của người dân cao hơn các quốc gia có trình độ phát triển tương đương.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng bộc lộ những hạn chế. Công tác y tế dự phòng chưa được đầu tư xứng đáng; hệ thống y tế cơ sở thiếu thốn nhân lực và thiết bị, chưa tạo được niềm tin vững chắc của người dân. Năng lực sản xuất thuốc, vắc-xin và trang thiết bị y tế vẫn phụ thuộc nhập khẩu. Chất lượng khám chữa bệnh còn chênh lệch giữa các vùng miền. Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm, dinh dưỡng, môi trường sống chưa thực sự được coi trọng.
Đặc biệt, chế độ đãi ngộ dành cho nhân viên y tế chưa tương xứng với đặc thù nghề nghiệp, khiến nhiều nơi khó giữ chân bác sĩ giỏi ở tuyến cơ sở. Bên cạnh đó, một số vụ việc vi phạm trong lĩnh vực khám chữa bệnh, dược phẩm và thực phẩm gây bức xúc trong xã hội. Những bất cập này đòi hỏi một sự đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và kịp thời.
Nghị quyết khẳng định, sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là nền tảng cho hạnh phúc của từng cá nhân, cho sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, chăm lo sức khỏe nhân dân phải là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, giữ vị trí ưu tiên trong các chiến lược phát triển. Người dân được đặt ở vị trí trung tâm của mọi chính sách.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh việc chuyển tư duy từ “chữa bệnh” sang “phòng bệnh”, khẳng định vai trò then chốt của y tế dự phòng, y tế cơ sở và y học cổ truyền. Theo đó, chuyển mạnh từ tư duy tập trung khám bệnh, chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh; chú trọng bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe toàn diện, liên tục theo vòng đời. Xác định đúng vị thế, vai trò của y tế dự phòng, y tế cơ sở, y học cổ truyền; tập trung xây dựng, hoàn thiện, nâng cao năng lực y tế dự phòng, hệ thống y tế cơ sở bảo đảm phòng bệnh từ sớm, từ xa, từ cơ sở, sẵn sàng ứng phó với các tình huống khẩn cấp về y tế công cộng.
Đặc biệt, cần có chính sách, cơ chế đột phá trong huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân; đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong y tế; cải cách mạnh mẽ tài chính y tế, bảo đảm hiệu quả, bền vững của chính sách BHYT; tiếp tục thực hiện chủ trương ngân sách nhà nước, BHYT bảo đảm chi trả cho các dịch vụ y tế ở mức cơ bản, người sử dụng chi trả cho phần vượt mức.
Nghị quyết đặt mục tiêu, đến năm 2030, tăng chiều cao trung bình của trẻ em và thanh thiếu niên từ 1-18 tuổi thêm tối thiểu 1,5cm; tuổi thọ trung bình đạt 75,5 tuổi, trong đó số năm sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm. Tỷ lệ tiêm chủng các vắc-xin trong Chương trình tiêm chủng thiết yếu đạt trên 95%. Tỷ lệ người dân thường xuyên tham gia hoạt động thể chất tăng thêm 10%.
Từ năm 2026, người dân được khám sức khỏe định kỳ hoặc khám sàng lọc miễn phí ít nhất mỗi năm 1 lần, được lập Sổ Sức khỏe điện tử để quản lý sức khỏe theo vòng đời, từng bước giảm gánh nặng chi phí y tế. Đến năm 2030, người dân được miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi BHYT theo lộ trình.
Cùng với đó, 100% trạm y tế cấp xã được đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị y tế, nhân lực theo chức năng, nhiệm vụ; đến năm 2027 mỗi trạm y tế có ít nhất 4-5 bác sĩ. Tăng tỷ lệ khám chữa bệnh BHYT tại trạm y tế cấp xã lên trên 20%. Đến năm 2026, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt trên 95% dân số, đến năm 2030 đạt bao phủ BHYT toàn dân; phát triển các loại hình bảo hiểm sức khỏe.
Tầm nhìn đến năm 2045, phấn đấu môi trường sống có chất lượng tốt; các chỉ số sức khỏe của người dân, chỉ số bao phủ dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu ngang tầm các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Người dân có tuổi thọ trung bình đạt trên 80 tuổi, trong đó số năm sống khoẻ mạnh tăng lên trên 71 tuổi, tầm vóc, thể lực, chiều cao trung bình của thanh niên tương đương các quốc gia có cùng mức phát triển.
Nghị quyết đưa ra 6 nhóm giải pháp cụ thể gồm:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, hành động trong chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trong đó, xác định sức khỏe là trọng tâm phát triển; lồng ghép chỉ tiêu y tế vào chiến lược kinh tế-xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, xây dựng phong trào toàn dân rèn luyện, chọn ngày 7/4 là "Ngày Sức khỏe toàn dân". Chủ động phòng bệnh, giảm sử dụng sản phẩm có hại, chú trọng sức khỏe tâm thần, an toàn lao động, giao thông. Đẩy mạnh giáo dục thể chất, dinh dưỡng, tuyên truyền nâng cao dân trí và đổi mới quản trị y tế minh bạch, trách nhiệm.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực hệ thống y tế. Ban hành, sửa đổi luật về dân số, phòng bệnh, an toàn thực phẩm, thiết bị y tế, y học cổ truyền. Sắp xếp hệ thống y tế tinh gọn, liên thông 3 cấp; kiện toàn y tế dự phòng, mở rộng tiêm chủng, tăng cường sàng lọc bệnh. Củng cố y tế cơ sở, đưa bác sĩ về xã, bảo đảm nhân lực, cơ sở vật chất. Phát triển y tế chuyên sâu, trung tâm vùng, kết hợp quân dân y, nâng cao cấp cứu ngoại viện, phát huy y học cổ truyền và dược liệu.
Thứ ba, nâng cao y đức, phát triển nhân lực y tế chất lượng. Đổi mới thái độ, phong cách phục vụ, thực hiện "Lương y như từ mẫu". Tăng cường giáo dục y đức, kỹ năng giao tiếp, xử lý nghiêm tiêu cực. Bảo đảm môi trường làm việc an toàn, giảm áp lực cho nhân viên. Phát triển nhân lực đủ số lượng, chất lượng, ưu tiên y tế cơ sở, vùng khó khăn. Có chính sách đãi ngộ đặc thù, phụ cấp ưu tiên. Đầu tư đào tạo chuyên sâu, hợp tác quốc tế, thu hút trí thức, chuyên gia và cử nhân lực y tế đi đào tạo nước ngoài.
Thứ tư, cải cách tài chính y tế, phát triển BHYT bền vững. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tăng chi thường xuyên và đầu tư cho y tế cơ sở, y tế dự phòng, nhóm yếu thế. Tổ chức khám sức khỏe định kỳ, sàng lọc miễn phí, xây dựng Sổ Sức khỏe điện tử. Thực hiện miễn viện phí từng bước cho đối tượng chính sách để giảm gánh nặng tài chính. Quản lý bền vững quỹ BHYT, cải cách thủ tục, đa dạng gói bảo hiểm. Bảo đảm thuốc, vắc-xin, trang thiết bị, nhân lực cho phòng chống dịch bệnh và các tình huống khẩn cấp.
Thứ năm, phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số y tế. Đẩy mạnh chuyển đổi số, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế, quản lý sổ sức khỏe, bệnh án, đơn thuốc điện tử. Tăng cường ứng dụng AI, blockchain, Big Data, IoT vào quản lý và dịch vụ y tế. Phát triển trung tâm nghiên cứu công nghệ cao, y học tái tạo, công nghệ gen, nano, hạt nhân. Tự chủ sản xuất vắc-xin, thuốc, thiết bị y tế; xây dựng khu công nghiệp dược phẩm đến năm 2030. Ưu tiên đầu tư nghiên cứu, sản xuất thuốc mới, sinh phẩm, vắc-xin hiện đại.
Thứ sáu, phát triển y tế tư nhân, huy động nguồn lực xã hội. Thúc đẩy đầu tư tư nhân, hợp tác công-tư trong y tế; khuyến khích bệnh viện tư quy mô lớn, cơ sở y tế vùng khó khăn, chăm sóc người cao tuổi, khuyết tật, trẻ em. Ưu tiên đất sạch, miễn giảm thuế, hỗ trợ thuê đất, cho phép chuyển đổi đất dự án cho y tế. Khuyến khích dùng trụ sở nhà nước dôi dư cho y tế. Tăng cường giám sát, phòng chống trục lợi chính sách. Huy động nguồn lực xã hội cho nâng cao thể lực, trí lực, tầm vóc người Việt.
Thanh Hằng
